1. Cơ
chế của tranexamic acid trong điều trị nám.
Cơ
chế điều trị nám của các hoạt chất dạng bôi và uống hiện nay đều dựa vào hai cơ
chế chính đó là: (1) ức chế sự tổng hợp melanin thông qua ức chế enzyme
tyrosinase hoặc các thành phần khác trong con đường tổng hợp melanin, nhóm hoạt
chất hoạt động theo cơ chế này gồm có: hydroquinone, azelaic acid, arbutin,
vitamin C, kojic acid; (2) giảm sự vận chuyển melanin từ melanocyte vào
keratinocyte, với khả năng làm tăng tốc độ đổi mới các lớp tế bào thượng bì,
retinoids làm giảm thời gian tiếp xúc giữa keratinocyte và melanocyte, từ đó
làm giảm sự vận chuyển melanin vào keratinocyte. [1]
Nghiên
cứu của kim và cộng sự cho thấy, tổn thương nám có sự gia tăng về kích thước và
số lượng mạch máu cũng như mức độ biểu hiện cao hơn của VEGF so với vùng da
lành [2].
Tranexamic
acid (TXA) mang lại hiệu quả điều trị nám dựa trên hai cơ chế chính. Đầu tiên,
TXA ức chế hoạt động của plasmin, từ đó giảm arachidonic acid tự do và giảm sản
xuất protagladine, một chất kích thích hoạt tính của tyrosinase, từ đó TXA ức
chế sự tổng hợp melanin. Thứ hai, plamin đóng vai trò kích thích chuyển hóa dạng
VEGF (yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu) dạng liên kết sang dạng tự do, làm
tăng sinh mạch máu ở da, do đó nhờ tác dụng ức chế plasmin, TXA có thể giúp làm
giảm số lượng và kích thước mạch máu ở vùng nám [1].
2. Đánh
giá hiệu quả điều trị nám của phương pháp tiêm TXA trong da.
Lee
và các cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu tiến cứu trên 100 phụ nữ Hàn Quốc bị
nám. Những bệnh nhân này được tiêm TX hàm lượng 4mg/ml ở vùng nám mỗi tuần
trong 12 tuần điều trị. Hiệu quả điều trị được đánh giá bằng thang điểm MASI tại
các thời điểm 4 tuần, 8 tuần và 12 tuần và bằng bộ câu hỏi đánh giá mức độ hài
lòng ở cuối nghiên cứu. Kết thúc nghiên cứu, có 85 bệnh nhân hoàn thành nghiên
cứu.
Kết
quả cho thấy thang điểm MASI giảm có ý nghĩa thống kê tại thời điểm 8 tuần và
12 tuần (giảm từ 13.22±3.02 thời điểm ban đầu xuống còn 9.02±2.62 ở tuần thứ 8
và còn 7.57 ± 2.54 ở thời điểm 12 tuần). Trong đó có 8 bệnh nhân (9,4%) được
đánh giá cải thiện tốt (51-75%), 65 bệnh nhân (76,5%) cải thiện ở mức trung
bình (26-50%) và 12 bệnh nhân (14,1%) cải
thiện kém (0-25%) [3].
3. So
sánh hiệu quả của tiêm TXA trong da với thuốc bôi hydroquinone
Một
thử nghiệm lâm sàng hai nữa mặt đã được tiến hành trên 49 bệnh nhân bị nám. Những
người này được chia thành nhóm A (24 người), nhóm B (25 người). Những bệnh nhân
nhóm A được tiêm TXA 4mg/ml và nhóm B được tiêm TXA 10mg/ml ở mặt bên phải mỗi
2 tuần. Mặt bên trái của những bệnh nhân thuộc cả nhóm A và B được sử dụng hydroquinone
4%. Khoảng thời gian nghiên cứu điều trị là 3 tháng, và hiệu quả được đánh giá ở
các thời điểm trước điều trị, 4, 8, và 12 tuần bằng thang điểm MASI và mức độ
hài lòng của bệnh nhân ở cuối nghiên cứu.
Kết
quả cho thấy, mức độ cải thiện nám đáng kể (có ý nghĩa thống kê) có thể quan
sát thấy ở cả nhóm A, B cho cả điều trị TXA và hydroquinone. Ở nhóm A, điểm
MASI của bên bôi hydroquinone thấp hơn (hiệu quả hơn) nhiều so với bên điều trị
TXA 4mg/ml, tuy nhiên không có sự khác biệt về hiệu quả giữa bên mặt bôi
hydroquinone so với TXA 10mg/ml ở nhóm B. Khi so sánh giữa nhóm A (4mg/ml) với
nhóm B (10mg/ml) thì hiệu quả không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm này,
tuy nhiên mức độ hài lòng của bệnh nhân nhóm A cao hơn nhiều so với nhóm B (p=
0.001) [4].
Một
nghiên cứu khác của Naris Sakin đã tiến hành so sánh tiêm TXA trong da với
hydroquinone 2% trên 37 bệnh nhân. Những bệnh nhân này được tiêm TXA cách nhau
mỗi tháng. Hiệu quả được đánh giá trước điều trị và mỗi tháng. Kết quả cho thấy
cả hai phương pháp đều mang lại hiệu quả tốt (p<0.001). Cụ thể hơn nhóm được
điều trị TXA giúp làm giảm tỉ lệ melanin nhanh hơn so với HQ 2% trong 4 tuần đầu
tiên, tuy nhiên ở tuần thứ 20 thì không có sự khác biệt giữa hai nhóm bệnh
nhân. [5]
4. So
sánh hiệu quả giữa lăn kim TXA và tiêm trong da TXA
Một nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên
đã được tiến hành để đánh giá hiệu của của TXA khi lăn kim và khi tiêm trong
da. Trong nghiên cứu này có 60 bệnh nhân, được chia ra làm 2 nhóm, mỗi nhóm có
30 người. Hai nhóm bệnh nhân được lăn kim TXA hoặc tiêm trong da TXA cách nhau
1 tháng trong 3 tháng liên tiếp. Sau 3 tháng, nhóm lăn kim có tỉ lệ cải thiện
điểm MASI là 44,41 %, cao hơn so với nhóm tiêm trong da chỉ 35.72%. Ngoài ra,
chỉ có 26.09 % bệnh nhân cải thiện trên 50% ở nhóm tiêm trong da, trong khi đó
con số này đối với nhóm lăn kim là 41,38%. Không có tác dụng phụ đáng lưu ý nào
ở cả hai nhóm nghiên cứu.
Hiệu quả cao hơn của lăn kim so với
tiêm trong da có thể được giải thích là do lăn kim giúp đua TXA xuống sâu hơn
và đồng đều hơn, nên mang lại hiệu quả cao hơn [6].
5. Bàn
luận
Về
cơ chế, TXA tham gia vào hai cơ chế trong bệnh sinh của nám, đó là ức chế tổng
hợp melanin và ức chế tăng sinh mạch máu.
Hiệu
quả quả tiêm trong da TXA dường như ở mức độ trung bình, tương đương với HQ 2%
và hơi yếu hơn so với HQ 4%.
Khoảng
cách điều trị và nồng độ TXA khác nhau giữa các nghiên cứu. Khoảng cách điều trị
của TXA trong các nghiên cứu là từ 1-4 tuần, và các nồng độ TXA được áp dụng là
4mg/ml, 10 mg/ml, 20mg/ml. Tuy nhiên tất cả đều mang lại hiệu quả điều trị.
Lăn
kim tỏ ra ưu thế hơn tiêm trong da TXA do đưa hoạt chất sâu hơn và đồng điều
hơn.
DR. PHAM TANG TUNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Perper
M, Eber AE, Fayne R, et al. Tranexamic Acid in the Treatment of Melasma: A
Review of the Literature. Am J Clin Dermatol. 2017;18(3):373-381.
doi:10.1007/s40257-017-0263-3
2. Kim
EH, Kim YC, Lee E-S, Kang HY. The vascular characteristics of melasma. J
Dermatol Sci. 2007;46(2):111–6. doi:10.1016/j.jdermsci.2007.01.009.
3.
Lee JH,
Park JG, Lim SH, et al. Localized intradermal microinjection of tranexamic acid
for treatment of melasma in Asian patients: a preliminary clinical trial. Dermatol Surg. 2006;32(5):626-631. doi:10.1111/j.1524-4725.2006.32133.x
4. Pazyar N, Yaghoobi R, Zeynalie M, Vala S. Comparison of the efficacy of
intradermal injected tranexamic acid vs hydroquinone cream in the treatment of
melasma. Clin Cosmet Investig Dermatol. 2019;12:115-122.
Published 2019 Feb 14. doi:10.2147/CCID.S191964
5. Saki N, Darayesh M, Heiran A. Comparing the
efficacy of topical hydroquinone 2% versus intradermal tranexamic acid
microinjections in treating melasma: a split-face controlled trial. J Dermatol
Treat. 2018;29(4):405–410.
6. Budamakuntla L, Loganathan E, Suresh DH, et al. A Randomised,
Open-label, Comparative Study of Tranexamic Acid Microinjections and Tranexamic
Acid with Microneedling in Patients with Melasma. J Cutan Aesthet Surg.
2013;6(3):139-143. doi:10.4103/0974-2077.118403
Kết quả cho thấy, mức độ cải thiện nám đáng kể (có ý nghĩa thống kê) có thể quan sát thấy ở cả nhóm A, B cho cả điều trị TXA và hydroquinone. Ở nhóm A, điểm MASI của bên bôi hydroquinone thấp hơn (hiệu quả hơn) nhiều so với bên điều trị TXA 4mg/ml, tuy nhiên không có sự khác biệt về hiệu quả giữa bên mặt bôi hydroquinone so với TXA 10mg/ml ở nhóm B.
Trả lờiXóaBác sỹ Tùng ơi, cho mình hỏi là theo như thông tin trên đây thì mình đang hiểu điều trị bằng hydroquinone hiệu quả hơn TXA 4% đúng không ạ? Xin cám ơn bác sỹ!