Mụn trứng
cá là một bệnh lí da mạn tính phổ biến nhất hiện nay. Việc điều trị mụn trứng
cá đòi hỏi thời gian điều trị lâu dài và điều trị duy trì gần như là bắt buộc để
kiểm soát lâu dài mụn trứng cá. Các biện pháp điều trị mụn trứng cá chủ yếu hiện
nay là sử dụng thuốc bôi (benzoyl peroxide, retinoids, kháng sinh bôi, AHAs,
BHAs, tea tree oil, niacinamide…) và thuốc uống (kháng sinh, isotretinoin).
Ngoài ra, một trong những phương pháp điều trị hỗ trợ được sử dụng rất phổ biến
hiện nay ở Việt Nam và thế giới đó là peel da hóa chất.
Bệnh sinh
của mụn trứng cá liên quan đến các yếu tố như sự tăng sinh và phát triển của vi
khuẩn P. acnes, tăng tiết bã nhờn, tăng sừng hóa cổ nang lông, và quá trình
viêm. Các hoạt chất peel (salicylic acid, glycolic acid, mandelic acid…) có tác
dụng diệt khuẩn, kháng viêm, ly sừng, tiêu còi mụn và giúp kiềm dầu, do đó peel
da điều trị mụn đã trở nên rất phổ biến hiện nay [1].
Peel được
chia thành peel nông, trung bình và sâu, tuy nhiên trong điều trị mụn người ta
thường sử dụng peel nông và tiến hành peel nhiều lần. Các sản phẩm peel điều trị
mụn truyền thống gồm peel salicylic acid 20-30%, peel glycolic acid (30-70%),
peel Jessner…. Các loại peel mới được nghiên cứu gần đây như mandelic acid,
phytic acid ngày càng trở nên phổ biến và đã chứng minh được hiệu quả của nó
trong điều trị mụn.
Trong một
thử nghiệm lâm sàng hai nữa mặt trên 20 bệnh nhân (split-face study) nhằm so
sánh hiệu quả của GA 30% (peel mỗi 2 tuần, 6 lần điều trị) với GA 30% (peel mỗi
2 tuần, 6 lần điều trị). Kết quả cho thấy bệnh nhân có sự cải thiện ở mức độ tốt
(>50%) đến vừa (25-50%) về số lượng tổn thương sau 1 tháng điều trị
(p<0.05). Sau hai tháng ngưng điều trị hiệu quả của peel GA được duy trì tốt
hơn so với GA. Tác giả nghiên cứu đã kết luận rằng GA và SA có hiệu quả điều trị
ngang nhau, tuy nhiên SA có khả năng duy trì kết quả tốt hơn so với GA. Ngoài
ra tác dụng phụ của SA thấp hơn so với GA [2].
Một thử
nghiệm lâm sàng (40 bệnh nhân) đã được tiến hành để so sánh SA 30% (peel mỗi 2
tuần, 6 lần điều trị) với dung dịch Jessner (JS) (peel mỗi 2 tuần, 6 lần điều trị).
Kết quả cho thấy SA ưu thế hơn so với JS về khả năng làm giảm số lượng tổn
thương mụn ẩn ( giảm 53.4% so với 26.3%, p= 0.001), tuy nhiên hiệu quả về tổn
thương sẩn viêm ( 71% so với 61.5%) và mụn mủ (70.3% và 76.7%) là tương tự nhau
giữa hai loại peel. Mức độ giảm điểm Michaelson Acne Score trung bình ở nhóm SA
cao hơn nhiều so với JS (60.4% so với 34.1%) [3].
Mandelic acid thuộc nhóm AHAs, có nguồn gốc từ
quả hạnh đắng (bitter almond). Trong y khoa, mandelic acid đã từng được sử dụng
để khử khuẩn nước tiểu. Mandelic acid đã được nghiên cứu rất nhiều về khả năng
điều trị của nó đối với các vấn đề về da như lão hóa da, rối loạn sắc tố, mụn
trứng cá và phục hồi da sau các thủ thuật tái tạo bề mặt [4]. Mandelic acid có
khả năng kháng khuẩn và kháng viêm mạnh nhờ vào cấu trúc tương tự một kháng
sinh và là bản chất là một acid yếu của nó, đo đó, peel mandelic acid đặc biệt
hữu ích trong trường hợp mụn viêm và mụn mủ so với salicylic acid.
Dayal đã tiến hành nghiên cứu so sánh hiệu quả
của salicylic 30% với mandelic acid 45% trong điều trị mụn trứng cá nhẹ và
trung bình. Kết quả cho thấy hiệu quả điều trị ngang nhau giữa hai loại acid.
Tuy nhiên salicylic acid có ưu thế hơn trong điều trị các tổn thương mụn không
viêm, trong khi đó mandelic acid lại cho kết quả tốt hơn đối với các tổn thương
mụn viêm [5]. Một nghiên cứu khác cũng đã được tiến hành nhằm so sánh hiệu quả
điều trị mụn trứng cá của peel GA so với hỗn hợp peel SA 20%- mandelic acid
10%. Kết quả cho thấy khả năng làm giảm số lượng tổn thương mụn và tăng sắc tố
sau viêm ở nhóm SA-MA cao hơn hẳn so với nhóm peel GA [6]
Ngoài khả năng điều trị mụn viêm tốt, mandelic
acid còn là ứng cử viên tiềm năng trong điều trị chống lão hóa nhờ khả năng
kích thích tổn hợp collagen của nó. Một nghiên cứu đánh giá hiệu quả chống lão
hóa da của thuốc bôi mandelic acid đã được tiến hành. Trong nghiên cứu này, 24 bệnh nhân có
độ tuổi từ 42- 68 tuổi được thoa kem chứa mandelic acid 6% vào buổi sáng, và
mandelic acid 4% vào mỗi buổi tối. Sau một tháng, mức độ đàn hồi của vùng da dưới
mắt tăng 24.2 % (p= 0.003), độ săn chắc tăng 23.8 % (p=0.29) [7].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Castillo DE, Keri JE. Chemical peels in the
treatment of acne: patient selection and perspectives. Clin Cosmet
Investig Dermatol. 2018;11:365-372. Published 2018 Jul 16.
doi:10.2147/CCID.S137788
2. Kessler
E, Flanagan K, Chia C, Rogers C, Glaser DA. Comparison of alpha- and
beta-hydroxy acid chemical peels in the treatment of mild to moderately severe
facial acne vulgaris. Dermatol Surg. 2008;34(1):45-51. doi:10.1111/j.1524-4725.2007.34007.x
3. Chen X, Wang S, Yang M, Li L. Chemical peels for
acne vulgaris: a systematic review of randomised controlled trials. BMJ
Open. 2018;8(4):e019607. Published 2018 Apr 28.
doi:10.1136/bmjopen-2017-019607
4. Taylor
MB. Summary of mandelic acid for the improvement of skin conditions. Cosmetic
Dermatology. 1999;26‐28.
5.
Dayal S,
Kalra KD, Sahu P. Comparative study of efficacy and safety of 45% mandelic acid
versus 30% salicylic acid peels in mild-to-moderate acne vulgaris. J
Cosmet Dermatol. 2020;19(2):393-399. doi:10.1111/jocd.13168
6.
Garg VK,
Sinha S, Sarkar R. Glycolic acid peels versus salicylic-mandelic acid peels in
active acne vulgaris and post-acne scarring and hyperpigmentation: a
comparative study. Dermatol Surg. 2009;35(1):59-65.
doi:10.1111/j.1524-4725.2008.34383.x
7.
Jacobs
SW, Culbertson EJ. Effects of Topical Mandelic Acid Treatment on Facial Skin
Viscoelasticity. Facial Plast Surg. 2018;34(6):651-656.
doi:10.1055/s-0038-1676048
0 nhận xét:
Đăng nhận xét