PEEL BẰNG RETINOIC ACID (PHẦN 2)
BS.CKI. PHẠM TĂNG TÙNG
Chuẩn bị bệnh nhân, hướng dẫn sử dụng và liều lượng
Đối tượng bệnh nhân lí tưởng là những người trước đây được điều trị hàng ngày bằng retinoic acid theo hướng dẫn của bác sĩ da. Mục đích của pha tiền điều trị là để chuẩn bị da cho quá trình peel và để theo giỏi trong pha tái tạo. Để đạt được điều này, tretinoin thường được bôi trước đó 1 tháng vì tác động của nó lên da sẽ giúp quá trình peel thấm tốt hơn, từ đó cho kết quả tốt hơn. Hơn nữa, việc chuẩn bị bệnh nhân với tretinoin còn giúp thúc đẩy quá trình lành sau thủ thuật. Để phòng ngừa tăng sắc tố sau viêm, cần bôi chống nắng hàng ngày để ức chế quá trình tăng sinh melamin lớp thượng bì (Fischer. 2010).
Đối với người có màu da tối, phân loại Fitzpatrick 3 trở lên, thường có xu hướng tăng sắc tố sau peel. Những người này phải được điều trị với hydroquinone hoặc những hoạt chất được chấp nhận khác ít nhất 3 tuần trước khi làm thủ thuật. Những chất này có thể được sử dụng vào ban ngày, thậm chí là ở bãi biễn, bể bơi cùng với một loại chống nắng phù hợp. Hydroquinone hiếm khi gây ra dị ứng, những cũng thường xuyên gây ra viêm da kích ứng nếu bệnh nhân bôi một lớp quá dày. Do đó, nó phải được sử dụng với lượng tối thiểu “gần như không” như tôi thường khuyên bệnh nhân của mình. Với nám má, chất này có thể dùng đến 3 lần trong một ngày.
Kết quả đạt được rất ấn tượng và chúng tôi cho rằng hydroquinone là tiêu chuẩn vàng đối với nám má! Điều trị với hydroquinone để chuẩn bị da trước peel khiến thủ thuật này trở nên an toàn hơn. Tuy nhiên, phải đảm bảo mua những sản phẩm này từ một nhà thuốc mà bạn tin tưởng. Một công thức sai của hydroquinone như monobenzylether có thể gây ra thảm họa như mất sắc tố vĩnh viễn, thậm chí lan ra ngoài vùng điều trị. Cần phải hướng dẫn bệnh nhân đến một địa chỉ nhà thuốc uy tín.
Bệnh nhân cần phải được hiểu về những gì sẽ xảy ra trong và sau thủ thuật cũng như tầm quan trọng của dùng chống nắng hàng ngày.
Dù là peel nông, cũng cần phải dự phòng nhiễm herpes. Lấy kĩ bệnh sử của bệnh nhân và nếu bệnh nhân có tiền sử nhiễm herpes thì cần điều trị kháng virus với valacyclovir 500mg 12/12h trong 5 ngày trước khi peel.
Trong quá trình peel, cần giữ im phòng thủ thuật im lặng, nên mở nhạc thư giãn và tạo môi trường thân thiện, nhiệt độ mát mẻ. Bệnh nhân phải được đội mũ dùng một lần, và mang áo quần thỏa mái, bác sĩ phải đi găng tay. Cần tạo ra sự thỏa mái cho bệnh nhân.
Nồng độ retinoic acid sử dụng trong peel từ 3% đến 12%. Nồng độ thường dùng và an toàn nhất là 5%. Một nghiên cứu được xuất bản năm 2011 cho thấy không có sự khác biệt trong kết quả điều trị nám má giữa hai nồng độ 5% và 10% (Magalhães. 2010). Dung dịch có thể được bào chế với gel, lotion, hoặc cream của propil- enoglycol. Dung môi phổ biến nhất là propilenogycol và màu của dung dịch
là màu vàng nhạt. Dung dịch lột da retinoic acid có thể được pha chế bởi dược sĩ với các tông màu da để tạo ra retinoic acid có màu vàng đậm tự nhiên. Retinoic acid có thể được bôi nhẹ nhàng bằng bút lông mềm dùng một lần và có thể bôi lên toàn bộ vùng da cần điều trị.
Trong quá trình bôi dung dịch thì bệnh nhân sẽ không cảm thấy đau, tuy nhiên một số bệnh nhân có da nhạy cảm có thể cảm thấy hơi châm chích. Bệnh nhân phải giữ dung dịch ở trên mặt ít nhất 6h và sau đó rửa sạch. Trong ngày tiếp theo, bệnh nhân có thể bị đỏ da từ nhẹ đến nặng tùy vào độ sâu của peel nông.
Độ sâu của peel phụ thuộc vào độ dày của thượng bì, mật độ nang lông, mức độ tổn thương ánh sáng, giới tính (da của nam dầu hơn, cản trở sự thâm nhập), kiểu da, mức độ kết dính của hàng rào thượng bì, và sự chuẩn bị trước đó của da (Yokomino. 2013).
Tẩy nhờn của da là then chốt để kiểm soát độ sâu và sự đồng nhất của bất kì loại peel nào, và nó cũng không có sự khác biệt đối với peel da bằng retinoic acid. Có thể tẩy nhờn cho da bằng cách chà mạnh với gạc thấm dung dịch Hoffman và chất này sẽ gây đỏ da tức thì sau khi peel. Với da dày hơn thì đây là một phương pháp tốt để peel. Cách này sẽ gây bong da nhiều hơn sau thủ thuật, và làm da nhìn tối hơn ngay trước khi bắt đầu peel. Bệnh nhân cần phải nhận thức được những nguy cơ cụ thể có thể xảy ra sau điều trị như làm xấu đi tình trạng giãn mạch và trứng cá đỏ (rosacea). Cũng có thể tẩy nhờn ở da bằng gạc thấm alcohol mà không cần phải chà, retinoic acid sau đó được bôi như cách được mô tả ở trên.
Trong điều trị vết rạn da, chà gạc là rất quan trọng để hoặt tính của retinoic acid đi sâu hơn vào da. Đối với chỉ định này và với da tổn thương ánh sáng, peel có thể được thực hiện sau vi mài da (microdermabrasion) hoặc laser vi điểm (fractional laser) để làm tăng hiệu quả. Đối với rạn da, vùng dược điều trị có thể được phủ bởi một lớp film PVC để làm tăng hiệu quả của peel.
 |
| Peel da bằng retinoic acid
|
Sau lột da
Bệnh nhân giữ lớp bôi retinoic acid ít nhất 6h, sau đó được hướng dẫn để rửa sạch dung dịch retinoic acid với nước và xà phòng nhẹ. Trong tuần tiếp theo, sử dụng chống nắng hàng ngày là bắt buộc. Sau mỗi lần peel nông, cần dùng dưỡng ẩm để tăng hiệu quả điều trị.
Tác dụng không mong muốn và cách xử lí
Lột da bằng retinoic acid có thể gây đỏ da nặng, đặc biệt trong trường hợp da mỏng và da được tẩy nhờn. Trong trường hợp này, có thể cho bệnh nhân dùng corticosteroid nhẹ bôi trong vài ngày để làm giảm triệu chứng. Đỏ da kéo dài hiếm gặp và nếu xảy ra, sử dụng corticosteroid halogen hóa dưới sự giám sát nghiêm ngặt của bác sĩ da vì quá trình viêm có thể dẫn đến tăng sắc tố sau viêm.
Ghi nhớ
Lột da bằng retinoic acid là phương pháp được đánh giá cao và được sử dụng thường xuyên bởi các bác sĩ da.
Nếu chưa có kinh nghiệm trong làm thủ thuật này, cần phải lưu ý.
Luôn chụp ảnh trước và sau thủ thuật; yêu cầu bệnh nhân đến phòng khám để kiểm tra hàng ngày cho đến khi cảm thấy ổn.
Đây là phương pháp tương đối đơn giản và an toàn, nếu bệnh nhân được hướng dẫn cẩn thận và tạo được mối quan hệ tốt giữa bệnh nhân- bác sĩ, họ sẽ cảm thấy hài lòng và thỏa mãn hơn.
Tài liệu tham khảo
2014 Plastic Surgery Statis- tics. http://www.plasticsurgery. org/ Documents/news-resources/sta- tistics/2014-statistics/ plastic-sur- gery-statsitics-full-report.pdf. Ac- cessed 05 Apr 2016.
Baldwin HE, Nighland M, Ken- dall C, Mays DA, Grossman R, New- burger J. 40 years of topical treti- noin use in review. Br J Dermatol. 2010;163(6):1157–65.
Brody HJ, et al. A history of chemical peeling. Dermatol Surg. 2000;26:405–9.
Cordero Jr A. La vitamina a acida em la piel senil. Actualizaciones Terapéuticas Dermatológicas. 1983;6:49–54.
Decherol JW, Mills O, Leyden
JJ. Naevus comedonicus – treatment with retinoic acid. Br J Dermatol. 1972; 86(5):528–9.
Fischer TC, Perosino E, Poli F, Viera MS, Dreno B, Cosmetic Derma- tology European Expert Group. Chem- ical peels in aesthetic dermatology: an
update 2009. J Eur Acad Dermatol Ve- nereol. 2010;24(3): 281–92.
Kligman AM. Photoaging:man- ifestations, prevention and treatment. Dermatol Clin. 1986;4(3):517–28. Kligman AM, Plewig G, Mills Jr OH. Topically applied tretinoin for senile (solar) comedones. Arch Dermatol. 1971;104(4):420–1.
Kligman AM, Grove GL, Hi- rose R, Leyden JJ. Topical tretinoin for photoaged skin. J Am Acad Dermatol. 1986;4:836–59.
Magalhães GM, Borges MF, Querioz ARC, Capp AA, Pedrosa SV, Diniz MS. Double-blind randomized study of 5% and 10% retinoic acid peels in the treatment of melasma: clinical evaluation and impact on the quality of life. Surg Cosmet Dermatol. 2011;3(1):17–22.
Mills OH, Kligman AM. Acne aestivalis. Arch Dermatol. 1975;111(7):891–2.
Yokomizo VMF, Benemond TMH, Chisaki C, Benemond PH. Chem- ical peels: review and practical ap- plications. Surg Cosmet Dermatol. 2013;5(1):58–68.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét