LOVE YOUR SKIN WITH EVIDENCE-BASED COSMETOLOGY

Thứ Tư, 31 tháng 12, 2025

PEEL DA BẰNG GLYCOLIC ACID (PHẦN 1)

BS.CKI. PHẠM TĂNG TÙNG

Tóm tắt

Lột da (peel) là một trong những thủ thuật lâu đời và phổ biến nhất trong ngành da liễu thẩm mỹ trên thế giới. Lột da hóa học được chia thành lột da nông, trung bình và sâu tùy vào mức độ xâm nhập của dung dịch lột da. Peel bằng glycolic acid (GA) được sử dụng nhiều nhất trong các loại peel bằng alpha hydroxyl acid (AHA) để peel rất nông, nông và thậm chí là peel ở độ sâu trung bình, bệnh nhân có thể dung nạp tốt tất cả những hình thức peel này mà không gây ra ngộ độc hệ thống. Peel bằng GA đã được sử dụng như là một liệu pháp kết hợp trong một loạt các vấn đề về da nhờ vào hiệu quả chống viêm, tiêu sừng và chống oxi hóa của nó.


Độ sâu khi peel bằng GA phụ thuộc vào nồng độ của acid được sử dụng, thời gian bôi, và bệnh của da. Mụn trứng cá (viêm và không viêm), sẹo mụn, nám má, lão hóa da ánh sáng, và tăng sắc tố sau viêm đều có thể điều trị bằng peel GA, nhưng chỉ định hay gặp nhất là trẻ hóa da. Cũng giống như peel bằng các AHA khác, GA cần được trung hòa khi kết thúc quá trình peel, cũng như cần peel lặp lại một vài lần để đạt được kết quả thẩm mỹ như mong muốn. Peel GA hầu như không cần thời gian phục hồi (downtime) trên lâm sàng và kết quả mang lại rất khác nhau giữa các bệnh nhân, tuy nhiên nếu chọn bệnh nhân phù hợp và dùng đúng kĩ thuật thì peel bằng GA có thể cải thiện da đáng kể. Ngoài ra, peel GA có thể được sử dụng đơn lẻ hay phối hợp với các kĩ thuật khác như tiêm botox, tiêm filler để thúc đẩy quá trình chống lão hóa da trên mặt.

Nội dung

- Giới thiệu
- Glycolic acid peel
- Độ mạnh và liều lượng của peel
- Chỉ định
- Chống chỉ định
- Cơ chế hoạt động
- Đánh giá tiền peel
- Vật liệu, dụng cụ cần thiết
- Thực hành peel
- Chuẩn bị da
- Thủ thuật làm sạch
- Bôi acid
- Trung hòa
- Chăm sóc sau peel
- Biến chứng

Liệu pháp phối hợp

- Peel bằng GA và TCA
- Dung dịch Jessner và peel GA
- Ưu điểm và nhược điểm của peel bằng Glycolic acid
- Ghi nhớ
- Tham khảo chéo
- Tham khảo

Giới thiệu

Lột da bằng hóa chất thực hiện bằng cách bôi hóa chất lên da nhằm phá hủy có kiểm soát một phần hay toàn bộ lớp thượng bị, kèm theo hoặc không kèm theo sự phá hủy lớp bì, đưa đến sự bong tróc và loại bỏ những tổn thương bề mặt từ đó thúc đẩy quá trình tái tạo mô thượng bì và mô bì mới (Khunger 2008). Lột da hóa học được chia thành lột da rất nông, nông, trung bình và sâu tùy thuộc vào mức độ thấm vào của dung dịch peel.

Trong peel rất nông, sự hoại tử chỉ diễn ra ở lớp sừng thượng bì. Peel nông sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ lớp thượng bì phía trên lớp đáy. Peel trung bình đặc trưng bởi sự hoại tử đến lớp bì lưới trên. Theo Rubin, người đã đưa ra phân loại da tổn thương do ánh sáng dựa thên độ sâu mô học của tổn thương, thì peel phải đạt đến được độ sâu nhất nơi tồn tại những vấn đề của da mới đạt được kết quả tốt nhất, điều này có nghĩa là việc lựa chọn bệnh nhân và tổn thương phù hợp để điều trị là yếu tố quyết định để đạt được kết
quả mong muốn (Ditre 2006; Fabbro- cini. 2009). Peel hóa chất có thể được sử dụng để điều trị mụn, sẹo mụn, rối loạn sắc tố, và các dấu hiệu lão hóa da ánh sáng như: nếp nhăn, dày sừng ánh sáng, và đốm nâu.

Peel hóa chất đã đứng vững qua thử thách của thời gian, và ngày nay có rất nhiều chế phẩm peel sẵn có trên thị trường. Rất nhiều hóa chất khác nhau đã được sử dụng như là chất peel, trong đó được sử dụng nhiều nhất là alpha hydroxyl acid như glycolic acid hoặc beta hydroxyl acid như salicylic acid (Fabbrocini. 2009). Trong chương này chúng ta sẽ tập trung tiếp cận cách sử dụng glycolic acid để peel, chất này có tác dụng tiêu sừng, tăng sinh các lớp tế bào và kích thích tế bào sợi (fibro- blast) (Fabbrocini. 2012). Trước khi đi sâu vào GA, chúng ta sẽ được giới thiệu ngắn gọn về alpha hydroxyl acid (AHA).

AHA được phát triển bởi Van Scott và Yu từ năm thập niên 1980 thời điểm mà peel nông được áp dụng nhiều hơn cho các trường hợp tăng sừng. Kết quả là người ta đã phát triển peel bằng glycolic acid (Fischer 2010). AHAs là một nhóm các acid hữu cơ có chung gốc hydroxyl ở vị trí alpha. Những chất này được tìm thấy trong thực phẩm tự nhiên như trái cây, mía, và sữa chua. AHAs gồm có glycolic acid (nguồn gốc từ mía), lactic acid (từ sữa chua), citric acid (từ chanh và cam), malic acid (từ táo), và tartaric acid (từ nho).

Nguồn gốc tự nhiên của glycolic acid là từ mía, tuy nhiên glycolic acid dùng trong tự nhiên được tạo ra trong phòng thí nghiệm từ các phản ứng hóa
học. AHA đơn giản và được sử dụng nhiều nhất là glycolic acid (GA), chất này có cấu trúc 2 phân tử carbon có đặc tính ưa nước mạnh giúp nó xâm nhập tốt hơn vào da tốt hơn.

GA dùng để peel thường có nồng độ 30%-70% để có thể làm tiêu lớp thượng bì và gây bong vảy. AHAs là những acid yếu giúp trẻ hóa da thông qua tác dụng chuyển hóa và ăn da của nó, những acid này cần được trung hòa bằng dung dịch base như sodium bicarbonate, sodium hydroxide, hoặc nước để ngưng tác dụng của chúng khi kết thúc peel (Murad 1995).

Trong phần này chúng ta sẽ xem xét đến độ mạnh và liều lượng của GA khi peel, và sau đó là tiếp cận với cơ chế hoạt động của nó. Từ đó chúng ta sẽ bàn luận đến chỉ định của GA, lựa chọn bệnh nhân phù hợp và cơ chế hoạt động. Tiếp theo đó là đánh giá tiền peel, an toàn trong thực hành peel và chăm sóc sau peel cũng sẽ được thảo luận. Ngoài ra những biến chứng của thủ thuật cũng như sự phối hợp các thủ thuật khác cũng được nhắc đến.


PEEL BẰNG GLYCOLIC ACID

Độ mạnh và nồng độ

GA là một chất lột da có nhiều tác dụng và có thể dùng ở nhiều độ mạnh khác nhau tùy theo nồng độ và thời gian tiếp xúc. Khoảng nồng độ gly- colic acid trong peel từ 20% đến 70%, và pH từ 1 đến 3. Chúng xuất hiện trên thị trường ở các dạng dung dịch free acid, dung dịch trung tính một phần (pH cao hơn) hay dung dịch đệm. Khi sử dụng dạng dung dịch đệm thì thời gian tiếp xúc cần thiết với hóa chất peel sẽ lâu hơn. Sự hấp thu gly- colic acid ở da người tùy thuộc vào pH, độ mạnh và thời gian (Fabbrocini. 2012). GA có nhiều dạng khác nhau từ dung dịch cho đến gel, trong đó dạng gel được ưa thích hơn do nó thấm vào chậm hơn và dễ kiểm soát hơn. Dung dịch acid tự do có pH thấp hơn dung dịch trung tính một phần cho phép lột da sâu hơn. Tương tự như vậy, nguy cơ acid thấm không đều vào da cao hơn với dung dịch có pH rất thấp, dẫn đến gây ra vùng lột da sâu hơn.

Giá trị pH và nguy cơ acid xâm nhập vào lớp bì có mối quan hệ thuận nghịch, nghĩa là nồng độ pH càng thấp thì nguy cơ xâm nhập vào lớp bì càng cao và peel càng sâu (có thể gây sẹo). Ngược lại, pH càng cao, thì dung dịch càng trung tính, càng ít acid tự do (hoạt tính sinh học thấp) và khả năng thấm vào da càng thấp. Dung dịch có pH thấp hơn sẽ gây bỏng, châm chích, và đỏ da nhiều hơn, tuy nhiên bệnh nhân ít dung nạp hơn so với dung dịch có pH cao hơn (Kede và Guedes. 2012).

Cần phải nhớ rằng độ sâu của peel nên được điều chỉnh theo độ sâu bệnh học của bệnh được điều trị; ví dụ, peel nông có thể cải thiện tính trạng mụn, nếp nhăn nhỏ, nám má nông, tuy nhiên sẽ không thể giúp cải thiện nếp nhăn sâu, nám má sâu, hay tăng sắc tố sau viêm. Khuyến cáo nên bắt đầu peel với nồng độ acid thấp (20- 30%) sau đó tăng dần nồng độ và thời gian tiếp xúc trong những lần peel tiếp theo (Landau 2007). Trung hòa acid là một bước quan trọng của thủ thuật và nên được tiến hành ngay lập tức với sodium bicarbonate hoặc nước sôi để
nguội ngay khi đạt được điểm cuối lâm sàng. Nếu GA không được trung và được giữ lại trên da trong thời gian quá dài, nó có thể gây ra tổn thương ở lớp bì (Monheit và Chastain. 2012).

Chỉ định

GA có thể được sử dụng để điều trị tăng sắc tố sau viêm, đốm nâu, nám má thượng bì (nông) (hình. 1), tăng tiết bã nhờn, và những nếp nhăn nhỏ (hình. 2) (Monheit và Kayal 2003). Mụn (hình. 3) ở các độ nặng khác nhau là một trong những chỉ định tốt của peel GA. Ở những bệnh nhân này, peel GA được sử dụng rộng rãi hơn so với dung dịch Jessner vì peel GA có hiệu quả điều trị tương đương nhưng ít gây bong tróc da hơn (Fabbrocini. 2012; Kim. 1999). Số lần peel và tần suất phụ thuộc vào mức độ đáp ứng lâm sàng, bệnh nhân thường dung nạp tốt với peel bằng GA. Cân nhắc điều trị nám má với peel bằng GA, vì sau peel sự phân bổ của melanin đồng đều hơn, và đào thải sự tích tụ mela- nin, do đó GA rất hữu ích trong điều trị nám má thượng bì. Tuy nhiên, nhiều nghên cứu so sánh hiệu quả của của các loại peel đối với nám má cho kết quả trộn lẫn, và việc sử dụng các chất peel không gây viêm như salicylic acid được ưa thích hơn cho những vấn đề trên vì khả năng gây tăng sắc tố sau viêm thấp hơn (Monheit và Chastain. 2012).

Glycolic acid có thể được dùng phối hợp với 5-fluorouracil để điều trị các bệnh tiền ung thư da như dày sừng ánh sáng và viêm môi ánh sáng, hỗn hợp này được gọi là fluorouracil-hy- droxy pulse peel (Jackson 2014).

Hình 1: Trước và sau khi peel GA (6 lần, mỗi lần cách nhau 4 tuần) cho bệnh nhân nám má với kết quả thành công
Hình 1: Trước và sau khi peel GA (6 lần, mỗi lần cách nhau 4 tuần) cho bệnh nhân nám má với kết quả thành công


Hình 2: Ảnh trước và sau khi lột da bằng glycolic acid (6 lần, mỗi lần cách nhau 4 tuần) điều trị trẻ hóa da cho kết quả thành công (cải thiện kết cấu, nếp nhăn nhỏ, và sắc tố da)
Hình 2: Ảnh trước và sau khi lột da bằng glycolic acid (6 lần, mỗi lần cách nhau 4 tuần) điều trị trẻ hóa da cho kết quả thành công (cải thiện kết cấu, nếp nhăn nhỏ, và sắc tố da)

Hình 3: Ảnh trước sau lột da bằng GA (6 lần, mỗi lần cách nhau 4 tuần) trong điều trị sẹo mụn.


Peel GA nông phù hợp với bệnh nhất ở tất cả các phân loại da; tuy nhiên peel GA trung bình nên tránh áp dụng đối với bệnh nhân có phân loại Fitzpatrick loại IV và V vì nguy cơ gây tăng và giảm sắc tố sau peel.

Chống chỉ định

Peel bằng GA chống chỉ định với các trường hợp cụ thể như đang bệnh nhân đang mang thai và cho con bú, nhiễm herpes simplex ở trạng thái hoạt động, viêm da tiếp xúc và dị ứng với glycolate. Ngoài ra, peel bằng GA sẽ làm tăng tính nhạy cảm của da với tia cực tím (UV) (Fabbrocini. 2012; Fischer. 2010).


Tài liệu tham khảo

  • Atzori L, Brundu MA, Orru A, Biggio

P. Glycolic acid peeling in the treat- ment of acne. J Eur Acad Dermatol Ve- nereol. 1999;12:119–22.

Bernstein EF, Lee J, Brown DB, Yu R, Van Scott

  • D.Glycolic acid treatment increases type I collagen mRNA and hyaluronic acid content of human skin. Dermatol Surg. 2001;27(5):429–33.

  • Coleman III WP, Futrell JM. The gly- colic acid tri- chloroacetic acid peel. J Dermatol Surg Oncol. 1994;20(1):76– 80.

  • Ditre CM. Alpha hydroxy acid peels. In: Rubin MG, Tung R, editors. Proce- dures in cosmetic dermatology series; chemical peels. St Louis: Elsevier; 2006. p. 27–35.

  • Fabbrocini G, De Padova MP, Tos- ti A. Chemical peels: what’s new and what isn’t new but still works well. Facial Plast Surg. 2009;25(5):329–36. doi:10.1055/s- 0029-1243082. Epub

2009 Dec 18.

  • Fabbrocini G, Padova MP, Tosti A. Gly- colic acid. In: Tosti A, Grimes PE, Pa- dova MP, editors. Color atlas of chem- ical peels. London: Springer; 2012. p. 9–16.

  • Fartasch M, Teal J, Menon GK. Mode of action of glycolic acid on human stratum corneum: ultrastructural and functional evaluation of the epi- dermal barrier. Arch Dermatol Res. 1997;289:404–9.

  • Fischer TC, Perosino E, Poli F, Viera MS, Dreno

B.Cosmetic Dermatology European Expert Group Chemical Peels in aes- thetic dermatology: an update.J Eur Acad Dermatol Venereol. 2010;24:281–92.

  • Jackson A. Chemical peels. Facial Plas Surg. 2014; 30(1):26–31.

  • Kadunc BV. Peelings químicos: médios e combinados. In: Kadunc B, Palermo E, Addor F, editors. Tratado de cirurgia dermatológica, cosmiatria e laser: da sociedade brasileira de dermatologia. Rio de Janeiro: Elsevi- er; 2012. p. 311–8.

  • Kede MPV, Guedes LS. Peelings químicos: superficiais. In: Kadunc B, Palermo E, Addor F, editors. Tratado de cirurgia dermatológica, cosmiatria e laser: da sociedade brasileira de dermatologia. Rio de Janeiro: Elsevi- er; 2012. p. 311–8.

  • Khunger N. Standard guidelines of care for chemical peels. Indian J Der- matol Venereol Leprol. 2008;74(Sup- pl S1):5–12.

  • Kim SW, Moon SE, Kim JA, Eun HC. Glycolic acid versus Jessner’s solu- tion: which is better for facial acne patients? A randomized prospective clinical trial of split-face model thera- py. Dermatol Surg. 1999;25(4):270–3.

  • Landau M. Chemical peels. Clin Der- matol. 2007;26:200–8. l therapy. Der- matol Surg 25(4): 270.

  • Monheit GD. The Jessner’s? TCA peel: a medium-depth chemical peel. J Der- matol Surg Oncol. 1989;15:945–50.

  • Monheit GD, Chastain MA. Chemical and mechanical skin resurfacing. In: Bolognia JL, Jorizzo JL, Schaffer JV, ed- itors. Dermatology, 3rd ed. Philadel- phia: Elsevier Mosby; 2012. p. 2496–8.

  • Monheit GD, Kayal JD. Chemical peel- ing. In: Nouri K, Leal-Khouri S, editors. Techniques in dermatologic surgery. St Louis: Elsevier; 2003. p. 233–44.

  • Murad H, Shamban AT, Premo PS. The use of glycolic acid as a peeling agent. Dermatol Clin. 1995;13:285–307.

  • Rubin MG. Manual of chemical peels. Philadelphia: JB Lippincott; 1992. p. 14.

  • Sharad J. Glycolic acid peel – a cur- rent review. Clin Cosmet Investig Der- matol. 2013;6:281–8. Tung R, Rubin MG. Procedures in cosmetic dermatology series: chemi- cal peels. 2nd ed. Philadelphia: Saun- ders; 2010.

  • Denise Steiner Residency in Derma- tology at Hos- pital das clínicas- Uni- versity of São Paulo, Doctorated in Dermatology at UNICAMP, presi- dent of the Brazilian Society of Dermatolo- gy 2013–2014

  • Mirella Pascini Residency in Internal Medicine and Dermatology at Irman- dade Santa Casa de Misericórdia de São Paulo, member of the Brazil- ian Society of Dermatology

Pin It

0 nhận xét:

Đăng nhận xét